NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BÀO CHỮA CHO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG GIAI ĐOẠN CẢI CÁCH TƯ PHÁP HIỆN NAY

Tại điều 3 Luật Trợ giúp pháp lý qui định: “Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo qui định của Luật này, giúp người được trợ giúp pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nâng cao hiểu biết pháp luật, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; góp phần vào việc phổ biến, giáo dục pháp luật, bảo vệ công lý, bảo đảm công bằng xã hội, phòng ngừa, hạn chế tranh chấp và vi phạm pháp luật”.

Tại khoản 2 và 3 Điều 4 Luật Trợ giúp pháp lý qui định nguyên tắc hoạt động trợ giúp pháp lý như sau:

- Khoản 2, trung thực, tôn trọng sự thật khách quan

- Khoản 3, Sử dụng các biện pháp phù hợp với qui định của pháp luật để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người được trợ giúp pháp lý.

Bào chữa cho đối tượng là người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) là một nhiệm vụ khó khăn và đòi hỏi người bào chữa ngoài việc am hiểu pháp luật một cách chặt chẽ còn phải có một kiến thức về tâm lý, kiến thức xã hội và kinh nghiệm sống nữa.

I/-Các hoạt động của Luật sư- cộng tác viên trong quá trình tranh tụng


Trong mười năm qua, việc tham gia của luật sư- cộng tác viên trợ giúp pháp lý (CTVTGPL) trong quá trình tố tụng đã góp phần quan trọng trong việc xác định sự thật khách quan của những vụ án có người chưa thành niên phạm tội, giúp cho hội đồng xét xử ra được những bản án công bằng, dân chủ và đúng pháp luật, bảo vệ tốt được quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng này.

Tuy nhiên trong thực tiễn, hoạt động tranh tụng của luật sư-cộng tác viên vẫn còn nhiều hạn chế, chưa phát huy hết được hiệu quả trong hoạt động trợ giúp pháp lý – Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể là người chưa thành niên phạm tội (NCTNPT) .

Hạn chế đó xuất phát bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chúng ta có thể chia ra làm hai nhóm nguyên nhân:

1- Nguyên nhân xuất phát từ nhóm các cơ quan tiến hành tố tụng.

2- Nguyên nhân thuộc về năng lực của luật sư, (CTVTGPL).

Vì vậy, để thực hiện tốt các hoạt động tranh tụng của luật sư - CTVTGPL, để thực hiện nguyên tắc dân chủ, để bảo vệ tốt cho quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể là NCTN phạm tội khi tham gia vào quá trình tố tụng đòi hỏi việc nghiên cứu về hoạt động tranh tụng của người làm công tác trợ giúp pháp lý phải được ngày một nâng cao hơn, kịp thời hơn và nghiêm túc hơn, để từ đó tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng của người làm công tác TGPL, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay.

Các hoạt động của luật sư- cộng tác viên, được xác định kể từ thời điểm các cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa và chấm dứt khi kết thúc phiên toà.

- Kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận người bào chữa, luật sư- CTV sẽ tham gia vào một số hoạt động như:tham dự vào các buổi lấy lời khai của NCTN bị tạm giữ (hay tại ngoại), tham dự vào hoạt động hỏi cung bị can, đối chất giữa các bị can, lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, thực nghiệm điều tra, trao đổi đề xuất với cơ quan tiến hành tố tụng (toà án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra). Khi tham gia vào các hoạt động trên, luật sư-CTV, TGVPL không những có trách nhiệm tìm ra những chứng cứ có lợi cho người được trợ giúp pháp lý-NCTNPT mà còn theo dõi, kiểm tra các hành vi, các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) . Nếu phát hiện thấy có sự vi phạm pháp luật, luật sư-CTV cần có những yêu cầu, kiến nghị đề xuất kịp thời để bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp cho đối tượng được trợ giúp là NCTNPT. Thực ra, giai đoạn này rất quan trọng vì nếu luật sư-CTV làm tốt vai trò của mình sẽ phần nào hạn chế được oan sai ngay từ đầu và quyền và lợi ích hợp pháp của NCTNPT sẽ được đảm bảo. Vì trên thực tế, quyền của chủ thể này rất dễ bị xâm phạm bởi các CQTHTT. Do đó, đòi hỏi luật sư-CTV  luôn luôn thể hiện tốt vai trò của mình.

Một điểm quan trọng nữa, trong quá trình tiếp xúc với bị can là NCTN trong giai đoạn điều tra, chúng ta phải tranh thủ nắm bắt được diễn biến tâm lý của họ, nguyên nhân, mục đích, động cơ của việc phạm tội. Tại sao lại như vậy? Vì khi các chủ thể là NCTNPT tham gia vào một quan hệ pháp luật tố tụng, xét về mặt nhận thức về pháp luật đã là hạn chế và sẽ bị các điều kiện khác chi phối như lần đầu tiên phạm tội, bị tạm giữ bị cách ly khỏi gia đình, đời sống sinh hoạt hàng ngày... Do đó, tâm lý của chủ thể này thường không ổn định và điều đáng lo ngại nhất là hiện nay các CQTHTT của chúng ta chưa có những điều tra viên chuyên về điều tra NCTN và chưa có Toà chuyên trách xét xử NCTN. Việc luật sư – CTV cần phải khai thác tốt quá trình này để giúp cho NCTNPT an tâm khai đúng hành vi việc làm của mình trong quá trình lấy cung để từ đó chúng ta thấy được bản chất thật sự của vụ án.

Điều này vừa giúp cho CQTHTT làm rõ được sự thật khách quan của vụ án cũng như góp phần giúp cho luật sư – CTV làm tốt vai trò trợ giúp pháp lý của mình, đặc biệt là quá trình tranh tụng tại phiên toà.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần giải thích cho NCTNPT (bị can) các trình tự của một phiên toà, cách xưng hô như thế nào với Hội đồng xét xử và cách trả lời những câu hỏi của Hội đồng xét xử cũng như chỉ dẫn cho họ cách nói lời nói sau cùng như thế nào. Vì, nếu như chúng ta không làm tốt khâu này, bị can là NCTN sẽ gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng và dẫn đến hạn chế trong công tác bào chữa của chúng ta.

Ngoài việc tiếp xúc với bị can là NCTNPT ra, chúng ta cũng cần phải tiếp xúc với thân nhân, gia đình của họ để tìm hiểu những đặc điểm về nhân thân, hoàn cảnh phạm tội, động cơ phạm tội. Việc tiếp xúc với gia đình các em mang hai ý nghĩa:

1/-Giúp cho chúng ta tìm ra những tình tiết giảm nhẹ có lợi cho họ.

2/-Giúp cho gia đình hiểu các em hơn và chăm sóc các em tốt hơn sau khi chấp hành bản án. Để các em không lầm đường lỡ bước nữa.


Hiện nay, cũng còn một số luật sư – CTV khi tham gia công tác bào chữa thiên về hướng đọc hồ sơ mà không đi sâu về khai thác các đặc điểm tâm lý, nhân thân, hoàn cảnh gia đình của NCTNPT. Các CQTHTT của chúng ta hiện nay cũng không bao giờ đề cập đến điều kiện, hoàn cảnh cũng như động cơ phạm tội của NCTN khi phạm tội. Do đó, chúng ta cần phải khai thác một cách triệt để các đặc điểm tâm lý, nhân thân, hoàn cảnh gia đình của NCTNPT để giúp Hội đồng xét xử có thể hiểu rõ được động cơ, mục đích phạm tội của họ để HĐXX có thể quyết định mức hình phạt có lợi cho chủ thể mà chúng ta đang bào chữa.

Trong quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, chúng ta được phép tiếp cận toàn bộ hồ sơ vụ án. Trong quá trình này, trong mỗi Luật sư-CTV đều có kỹ năng tiếp cận hồ sơ riêng của mình.

Riêng tôi, khi được tiếp cận hồ sơ vụ án tôi luôn đặt mình vào vai trò là một kiểm sát viên để tìm chứng cứ buộc tội đương sự mà tôi đang trợ giúp.  Kế đến, tôi sẽ đọc lời khai của các nhân chứng, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các lời khai của các bị can khác trong vụ án. Lời khai của bị can mà tôi nhận trợ giúp tôi sẽ đọc sau cùng. Để từ đó có một cái nhìn toàn diện và khách quan hơn.

Trong phần thủ tục phiên toà, luật sư – CTV phải chú ý tập trung kiểm tra sự có mặt của những người tiến hành tố tụng, theo dõi thành phần của Hội đồng xét xử, chắc chắn phải có một Hội thẩm là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn TNCS HCM theo đúng qui định của pháp luật hay không.

Một trong những phần quan trọng trong giai đoạn xét xử là thủ tục xét hỏi tại phiên toà. Chúng ta phải chuẩn bị sẵn đề cương hỏi tại phiên toà, tập trung tư tưởng để theo dõi diễn biến quá trình xét hỏi của hội đồng xét xử (HĐXX), của kiểm sát viên (KSV) để khi tiến hành hỏi chúng ta không lặp lại những câu đã được hỏi, hoặc hỏi những câu không liên quan đến vụ án. Chúng ta tập trung hỏi những câu hỏi để làm rõ những tình tiết của vụ án chưa được Hội đồng xét xử làm rõ, hay hỏi những câu hỏi giúp cho bị cáo trả lời lại những vấn đề mà HĐXX chưa rõ hay hiểu chưa đúng. Những câu hỏi của chúng ta phải ngắn gọn, dễ hiểu và theo hướng làm lợi cho đương sự của mình. Trong giai đoạn cải cách hiện nay, chúng ta phải tích cực tham gia hỏi và cần tránh hỏi qua loa chiếu lệ.        

Kế đến là “lời bào chữa của luật sư – CTV” hết sức quan trọng. Bởi vì lời bào chữa của Luật sư chính là sự đánh giá đối với hành vi mà bị cáo gây ra, đồng thời cũng thể hiện quan điểm của Luật sư trong việc đề nghị xử lý, giải quyết đối với vụ án. Một bài bào chữa có chất lượng tốt, phải kèm theo ngữ điệu của người đọc nó thì mới phát huy được sức thuyết phục của nó, làm lay chuyển được Hội đồng xét xử và những người tham dự phiên toà.  Và chúng ta phải xây dựng nó trên các luận cứ pháp luật chặt chẽ và dựa vào phương pháp khoa học biện chứng.

Theo kinh nghiệm của riêng tôi, tôi luôn xây dựng bản luận cứ bào chữa của mình gồm ba phần: Nhận định; Nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ; Kiến nghị.

+Trong phần nhận định, chúng ta xây dựng trên cơ sở lời khai của đương sự mà chúng ta đang bảo vệ, lời khai của các bị can khác trong cùng vụ án, nhận định của CQCSĐT một cách khái quát. Trong phần này, chúng ta nhận định giúp HĐXX có một cách nhìn toàn diện về vụ án, về vai trò của đương sự mà mình đang bào chữa.

+Trong phần nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, chúng ta xây dựng trên cơ sở trong quá trình tiếp xúc với bị can, bị cáo, thân nhân (người đại diện hợp pháp của NCTN), những người sống lân cận hoặc có mối liên hệ gần gũi như bạn học, đồng nghiệp, bà con lối xóm của đương sự, thậm chí đối với người bị hại trong vụ án. Trong phần này chúng ta sẽ giúp cho HĐXX có một cách nhìn xuyên suốt về nhân thân của bị cáo vì trong hồ sơ vụ án không bao hàm các tài liệu về nhân thân một cách đầy đủ. Bên cạnh đó, các tình tiết giảm nhẹ được quy định cụ thể tại Điều 46 BLHS cũng như các văn bản như NQ 01/2000/ NQ- HĐTP TANDTC ngày 04/8/2000; NQ 01/2006/ NQ – HĐTP TANDTC ngày 12/5/2006; NQ 01/2007/ NQ-HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số qui định của BLHS  mà chúng ta tìm kiếm được trong quá trình tiếp xúc với bị can, gia đình của bị can trong giai đoạn điều tra. Chúng ta cần vận dụng để xây dựng bản luận cứ bào chữa của mình. Trong thực tiễn xét xử hiện nay, trong quá trình luận tội của mình, đại diện VKS thực hành quyền công tố tại phiên toà cũng nêu các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo, nhưng cũng chỉ là những tình tiết như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tải điểm p, khoản 1 Điều 46 BLHS và tình tiết là người chưa thành niên, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự... được quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS mà không đi sâu vào các tình tiết giảm nhẹ khác mà đáng lý ra các bị cáo được hưởng.

+Trong phần kiến nghị, chúng ta xây dựng trên cơ sở kết hợp hai phần nhận định và nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ để phát biểu quan điểm của mình cũng như đưa ra kiến nghị cho HĐXX và đề nghị áp dụng luật, điều khoản nào để giải quyết vụ án. Trên cơ sở các ý kiến đó, HĐXX sẽ xem xét, quyết định các vấn đề của vụ án một cách đúng đắn, chính xác và khách quan.

Tôi xin mở rộng vấn đề tại đây, nhằm bàn luận thêm về vấn đề áp dụng các điều luật như 46, 47, 69, 70, 74 BLHS khi xây dựng bản luận cứ bào chữa của mình. Trong thực tiễn, các bạn làm công tác bào chữa ít khi vận dụng hết đến Điều 69, 70 và 74 BLHS một cách triệt để. Hay chúng ta chưa mạnh dạn kiến nghị với HĐXX về áp dụng việc “Chuyển hướng xử lý đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật”. Đây là một vấn đề tương đối mới trong tình hình cải cách Tư pháp hiện nay. Vì việc áp dụng chế định “Chuyển hướng xử lý đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật” (CHXLĐVNCTNVPPL) được xây dựng trên tinh thần chung về tính nhân đạo, khoan dung của Pháp luật và chính sách nhất quán về bảo vệ, chăm sóc, giáo dục NCTN – một nhóm công dân đặc thù. Cơ sở pháp lý và thực tiễn của (CHXLĐVNCTNVPPL) là các quy tắc, chuẩn mực quốc tế; các qui định của pháp luật hành chính; cơ sở thực tiễn của Việt Nam. Cơ sở pháp lý và thực tiễn đó là dựa vào Công Ước về Quyền trẻ em:

“Ghi nhớ rằng, như đã chỉ ra trong tuyên bố về quyền trẻ em. Trẻ em do non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”
(Lời nói đầu)

“Trong tất cả hành động liên quan đến trẻ em, dù do các cơ quan phúc lợi xã hội công cộng hay tư nhân, Toà án, các nhà chức trách hành chính hay cơ quan lập pháp tiến hành thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu”
(Điều 3.1 Công Ước về Quyền trẻ em, 1990)

Sau khi luật sư trình bày lời bào chữa, bảo vệ cho thân chủ, những người tham gia tố tụng trình bày ý kiến bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình thì trình tự phiên toà sẽ tiếp đến phần đối đáp. Đối đáp trong tranh luận tại phiên toà là một phần rất quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên toà hình sự, khi tranh luận, Kiểm sát viên, người bào chữa cho đương sự có quyền phát biểu quan điểm của mình và trả lời ý kiến của người khác bằng việc phân tích đánh giá chứng cứ, đề nghị áp dụng luật và giải quyết những vấn đề của vụ án. Nếu không tán thành với đối đáp của KSV, thì chúng ta phải đưa ra những luận điểm xác đáng để bác bỏ ý kiến của KSV, bảo vệ các quan điểm đúng đắn trong luận cứ bào chữa của mình. Trong giai đoạn này, chúng ta cần tập trung tư tưởng, chú ý lắng nghe và ghi chép thật cẩn thận những ý kiến phát biểu của KSV và những người tham gia tố tụng khác, để đối đáp lại trên cơ sở chứng cứ có trong hồ sơ, chứng cứ mới đã được thẩm định công khai tại phiên toà. Trong suốt quá trình tranh luận, chúng ta phải luôn có thái độ tôn trọng HĐXX, KSV và những người tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên chúng ta cũng cần phái có thái độ kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, những lý lẽ không có căn cứ.

II/-Nguyên nhân của những hạn chế và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động bào chữa của luật sư – cộng tác viên, Trợ giúp viên pháp lý


Trong những năm vừa qua, đã có rất nhiều luật sư – CTV khi tham gia tranh tụng đã làm tốt chức năng của mình trong khuôn khổ pháp luật qui định. Tuy nhiên cũng còn nhiều luật sư – CTV chưa có đủ lập luận hoặc lập luận chưa có căn cứ để bảo vệ quan điểm của mình, chưa đưa ra được những căn cứ để bác bỏ quan điểm của KSV, của những người ở phía đối tụng, một số luật sư chưa có thái độ tôn trọng KSV và những người tham gia tố tụng khác, luận cứ bào chữa chưa thuyết phục được HĐXX và những người tham dự phiên toà. Những hạn chế đó xuất phát từ những nguyên nhân sau:

- Thứ nhất, do trình độ của luật sư – CTV còn nhiều hạn chế. Trình độ giữa các luật sư – CTV không đồng đều nhau. Trong số các luật sư – CTV hiện nay, nhiều luật sư chỉ có kinh nghiệm thực tiễn mà chưa có trình độ chuyên môn nghề nghiệp, nhiều luật sư mới chỉ có trình độ pháp lý ở bậc sơ cấp, trung cấp. Có những luật sư do qui định của pháp luật không phải qua khoá đào tạo nghề luật sư nếu họ đã có một thời gian nhất định làm điều tra viên, KSV, thẩm phán... bây giờ đã nghỉ hưu hoặc thôi nghề công chức để làm luật sư.

- Thứ hai, do qui định của pháp luật vẫn chưa thực sự chặt chẽ. Như việc quy định cho người bào chữa có thể tham gia tố tụng ngay từ khi có người bị tạm giữ, khi lấy lời khai của bị can là NCTNPT phải có đại diện hợp pháp của họ tham dự; thủ tục để người bào chữa có thể tham gia còn gặp rất nhiều trở ngại do phía CQĐT gây ra...

- Thứ ba, do nhận thức pháp luật của một số người tiến hành tố tụng (NTHTT) về mở rộng tranh tụng là không đầy đủ, chưa quán triệt được tinh thần của NQ 08/ BCT. Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn tham gia tranh tụng của luật sư, có thể thấy rằng một số qui định của pháp luật khi vận dụng vào thực tiễn còn có sự bất cập, chưa phù hợp hoặc khó thực hiện trên thực tế như tại điểm a khoản 2 Điều 58 BLTTHS quy định về quyền của người bào chữa có mặt khi lấy lời khai người bị tạm giữ...Trên thực tế,luật sư ít khi được tham gia lấy lời khai người bị tạm giữ.

Theo quan điểm hiện nay trên tinh thần cải cách Tư pháp thì HĐXX không nên hỏi quá nhiều mà chủ yếu làm nhiệm vụ trọng tài, điều khiển các hoạt động tố tụng tại phiên toà. Việc xét hỏi dành cho KSV, giữ vai trò công tố tranh luận với luật sư. Có như vậy tính chất tranh tụng dân chủ mới được thể hiện rõ nét.

Muốn nâng cao chất lượng tranh tụng của luật sư- CTV, TGVPL trong quá trình tố tụng đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung kịp thời một số quy định trong BLTTHS hiện hành. Song song, chúng ta phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của luật sư – CTV. Đội ngũ của chúng ta không ngừng rèn luyện mình, không ngừng học hỏi cập nhật kiến thức pháp luật thường xuyên.


Và điều quan trọng nhất để nâng cao chất lượng bào chữa cho NCTN trong vụ án hình sự là lòng nhiệt thành phục vụ công tác trợ giúp pháp lý của mỗi luật sư – CTV trong chúng ta trong giai đoạn cải cách Tư pháp hiện nay. Hay nói một cách khác là trong mỗi chúng ta phải nhận thức được chữ “TÂM” – và lấy chữ “TÂM” làm hoạt động kim chỉ nam cho bước đường Trợ Giúp pháp lý của mình, có như thế chúng ta sẽ nâng cao được chất lượng bào chữa cho đối tượng NCTN- là yêu cầu bức thiết đang được đặt ra ở đất nước chúng ta trong giai đoạn hiện nay.


Luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch

 

Tin tức khác


   Trang sau >>